Ngày 21/6/2025, Học viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức Hội nghị khoa học chuyên đề “Công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số”, với sự tham dự của lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cùng đông đảo nhà khoa học, chuyên gia và đại diện doanh nghiệp.
Cụ thể hóa chủ trương lớn bằng hành động thực chất
Phát biểu khai mạc Hội nghị, GS.TS. Nguyễn Thị Lan – Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam khẳng định: “Triển khai Nghị quyết 57 là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của Học viện trong giai đoạn tới. Chúng tôi xác định phải chuyển đổi từ tư duy đào tạo truyền thống sang mô hình đại học đổi mới sáng tạo, nơi hội tụ trí tuệ, công nghệ và năng lực hành động.”
Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ khoa học công nghệ thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực. Trong đó, nông nghiệp – môi trường được xác định là một trong những lĩnh vực ưu tiên, cần đổi mới căn cơ về cách tiếp cận, phương thức đầu tư, cơ chế phối hợp và tổ chức thực thi.
GS.TS. Nguyễn Thị Lan - Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam phát biểu khai mạc Chương trình
Với gần 70 năm xây dựng và phát triển, Học viện đã đào tạo hơn 120.000 kỹ sư, cử nhân, 12.000 thạc sĩ và 700 tiến sĩ, là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Đội ngũ hiện nay gồm gần 100 giáo sư, phó giáo sư, hơn 360 tiến sĩ, với hơn 90% giảng viên được đào tạo tại các quốc gia có nền khoa học phát triển, như Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan, Úc.
Cùng với đó, hệ thống 52 phòng thí nghiệm hiện đại (6 đạt chuẩn ISO), 82 mô hình thực nghiệm, Trung tâm Nghiên cứu xuất sắc và Đổi mới sáng tạo với 20 phòng chuyên sâu… là nền tảng để Học viện tổ chức nghiên cứu có chiều sâu, chuyển giao hiệu quả.
Các đại biểu tham dự tại Chương trình
Hệ sinh thái đổi mới mở – kết nối “tam giác vàng”
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng đã đặt ra một câu hỏi thẳng thắn nhưng rất đáng suy ngẫm: “Tăng trưởng ngành nông nghiệp thời gian qua là bao nhiêu? Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã đóng góp bao nhiêu phần trăm vào đó?”.
Bộ trưởng Bộ khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại chương trình
Câu hỏi ấy không chỉ là lời nhắc nhở, mà còn là sự kỳ vọng: Học viện không chỉ cần đổi mới tư duy, bắt nhịp chuyển đổi số, mà quan trọng hơn là phải lượng hóa được vai trò đóng góp cụ thể vào sự phát triển thực chất của ngành.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá cao nỗ lực của Học viện trong việc cụ thể hóa Nghị quyết thành các hành động chiến lược. Ông nhấn mạnh: “Chúng ta cần lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy nhu cầu thị trường làm định hướng và lấy sản phẩm thương mại hóa làm thước đo cho hiệu quả KHCN.”
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi Trường Hoàng Trung chia sẻ tại chương trình
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung cũng đã chỉ rõ: Việc triển khai thành công các chủ trương lớn như Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 193 của Quốc hội và Nghị quyết 71 của Chính phủ về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phụ thuộc rất lớn vào vai trò của các đơn vị học thuật, trong đó có Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Theo Thứ trưởng, ngành nông nghiệp đang đứng trước đòi hỏi cấp bách về nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh và giá trị gia tăng. Muốn vậy, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phải đóng vai trò dẫn dắt, còn chuyển đổi số cần trở thành “hệ thần kinh trung ương” kết nối toàn chuỗi giá trị. Trong bối cảnh ấy, Học viện không chỉ là nơi đào tạo, mà còn cần trở thành hạt nhân khoa học công nghệ – nơi khởi nguồn và lan tỏa tri thức, công nghệ đến cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân.
Với mục tiêu trở thành trung tâm nghiên cứu – chuyển giao công nghệ tiên phong trong lĩnh vực nông nghiệp, Học viện xác định sẽ đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp (đã ký kết hợp tác với hơn 200 đơn vị), phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khuyến khích khởi nghiệp công nghệ, hình thành các trung tâm incubator và startup hub.
Các đề án đều được tổ chức theo cách tiếp cận tích hợp, từ nghiên cứu – thử nghiệm – hoàn thiện – thương mại hóa, không dừng lại ở sản phẩm khoa học, mà hướng tới giải pháp kinh tế có khả năng nhân rộng, đúng tinh thần “lấy thị trường làm định hướng, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy hiệu quả làm thước đo”.
Tại Hội nghị, Học viện công bố danh mục các công nghệ có thể chuyển giao ngay, như: chọn tạo giống cây trồng vật nuôi bằng sinh học phân tử, công nghệ nuôi cấy mô, hệ thống khí canh – thủy canh, sản xuất thực phẩm chức năng từ vi tảo, công nghệ cấy truyền phôi, phân li giới tính tinh trùng, sản xuất vaccine, kít chẩn đoán dịch bệnh…
Đồng thời, nhiều sản phẩm tiềm năng cũng đang được hoàn thiện, như giống bò vàng hướng thịt ứng dụng CRISPR/Cas9, kit chẩn đoán dịch tả lợn châu Phi, kháng thể IgY cho gia cầm, kit ELISA…
Học viện đang vận hành 46 nhóm nghiên cứu mạnh, với cơ chế mở, linh hoạt và yêu cầu bắt buộc: mỗi giảng viên phải dành tối thiểu 50% thời gian cho nghiên cứu, có kết quả đầu ra định lượng để xét thi đua và đánh giá năng lực. Đây là điểm khác biệt cốt lõi trong mô hình tổ chức, vận hành theo định hướng đại học đổi mới sáng tạo.
Đặc biệt, Học viện đã ký kết hợp tác với hơn 200 doanh nghiệp trong và ngoài nước, xây dựng mạng lưới nghiên cứu – thử nghiệm – thương mại hóa công nghệ, góp phần hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ngành nông nghiệp, đúng theo mô hình “tam giác vàng”: Nhà nước – Viện trường – Doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Giám đốc Học viện cũng thẳng thắn chỉ ra thực tế: nhiều sản phẩm chưa thể đưa vào thực tiễn do thiếu cơ chế thử nghiệm, vướng mắc pháp lý, bất cập trong phân bổ quỹ và chồng chéo giữa các văn bản điều hành.
Học viện kiến nghị cần có cơ chế đặc thù cho các viện, trường trong việc chuyển giao công nghệ, thử nghiệm sản phẩm mới, tiếp cận vốn đầu tư mạo hiểm, đồng thời đơn giản hóa quy trình thương mại hóa nghiên cứu. Đây là điều kiện cần thiết để biến tri thức thành giá trị kinh tế và xã hội.
Học viện đã xây dựng hai đề án KHCN quy mô lớn, với hơn 60 nhiệm vụ, gồm 11 dự án ứng dụng và 13 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, hướng tới các vấn đề lớn: Phát triển giống chủ lực, kiểm soát dịch bệnh nông nghiệp, công nghệ canh tác bền vững, số hoá chuỗi sản xuất và quản trị rủi ro môi trường.